10 THIẾT KẾ ĐỒ NỘI THẤT BIỂU TƯỢNG CỦA TRƯỜNG PHÁI BAUHAUS ------------------------------- Lịch sử hình thành và phát triển của Bauhaus Sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918), nước Đức sống thiếu thốn và khổ sở trong cái bi kịch của lịch sử dành cho một quốc gia bại trận. Nghệ thuật Đức cũng bị tổn thương, bởi những chật vật của cuộc sống đã khiến giới nghệ sĩ Đức không còn sức cho sáng tạo.
Giữa suy tàn và u ám, kiến trúc sư Walter Gropius nhận ra những khuôn vàng thước ngọc của kiến trúc thời trước không còn phù hợp nữa. Ông trút bỏ những hoạ tiết rườm rà khỏi các bản thiết kế, rồi chối từ hẳn những định ước xưa cũ vốn kiểu cách và đồng bóng. Ngày 12.4.1919, chính quyền thành phố Weimar, thuộc bang Thüringen, miền trung nước Đức, cấp giấy phép cho Gropius lập học viện thiết kế Bauhaus quốc gia, trên cơ sở sáp nhập hai Trường Nghệ thuật Thủ công Weimar của Henry vande Veldo và Đại học Nghệ thuật Tạo hình của Đại Huân Tước tồn tại từ trước chiến tranh.
Gropius đặt tên trường là Bauhaus, dịch là ngôi nhà của các công trình (building house), nhưng theo Weimar Bauhaus-Universität, nó là viết tắt của “một sự háo hức với sự cởi mở, thử nghiệm, sáng tạo, liên kết chặt chẽ để thực hành công nghiệp và đa quốc gia”. Hội đồng quản trị của trường Bauhaus ngoài Gropius còn có những tên tuổi nổi tiếng như thiên tài vật lý Albert Einstein, kiến trúc sư Ludwig Mies van der Rohe, và các danh hoạ, các nhà thiết kế nổi tiếng như Josef Albers, Lyonel Feininger, Wassily Kandinsky, Paul Klee, Oskar Schlemmer…
Trong những năm đầu tiên của sự định hình, trường phái Bauhaus dừng lại trong các thể nghiệm về cân đối giữa thẩm mỹ và công năng ở những dự án nội thất hay ở việc chế tạo các vật dụng thường ngày như cái bàn, bộ ghế, những món đồ gốm, những cuộn giấy dán…Bauhaus hướng vào chủ nghĩa ấn tượng và tìm kiếm con đường cải cách riêng cho mình.
Những đặc trưng cơ bản của Thiết kế Bauhaus William Morris, nhà thiết kế nổi tiếng người Anh vào cuối thế kỷ XIX từng nhận định: Nghệ thuật thật sự đạt đến đỉnh điểm khi nó đáp ứng được nhu cầu của xã hội, sau đó không nên có sự phân biệt giữa hình thể và chức năng.
Nói cách khác, cái đẹp cần phải luôn song hành cùng công năng. Quan điểm ấy đã ảnh hưởng đến những thế hệ thiết kế về sau, tiêu biểu là sự phát triển mạnh mẽ của nghệ thuật đương đại ở Bauhaus. Phong cách De Stijl và trường phái thiết kế Nga cùng thời đại đồng thời có tác động lên những tác phẩm tại Bauhaus.
Vậy nên, các tác phẩm theo phong cách Bauhaus luôn đặt tính công năng lên hàng đầu thông qua ngôn ngữ hình học, hình khối đơn giản không trang trí. Tại Bauhaus các sản phẩm đều phải tuân thủ nguyên tắc “Thẩm mỹ đi liền với Công năng”. Năm 1923, Bauhaus tiến hành cải cách với quan điểm mới: Nghệ thuật và công nghệ – sự kết hợp mới. Sản phẩm cần phải đáp ứng được tính thẩm mỹ dựa theo các tiêu chuẩn về thiết kế, đồng thời đảm bảo công năng và tính tiện dụng. Về mặt kiến trúc hay trang trí nội thất cũng vậy. Những công trình được xây dựng theo mảng, khối, không thừa cũng không thiếu. Những chi tiết cầu kỳ như thước cột La Mã, phù điêu, hoa văn uốn lượn được giảm đến mức tối thiểu.
Bên cạnh “Thiết kế đáp ứng công năng”, Bauhaus còn là sự thống nhất giữa nghệ thuật và thủ công mỹ nghệ. Walter Gropius khẳng định rằng: “Kiến trúc sư, họa sĩ, nhà điêu khắc, chúng ta đều phải trở về làm thợ thủ công! Ở đó không có gì là “Art Professional – nghệ thuật chuyên nghiệp”. Không có sự khác biệt cơ bản giữa nghệ sĩ và thợ thủ công. Nghệ sĩ là một nghệ nhân cao quý…Một tền tảng của sự thủ công là cần thiết cho mọi nghệ sĩ. Nó là nguồn gốc là của sự sáng tạo.”
Dưới đây là 10 thiết kế đồ nội thất tiêu biểu của phong trào Bauhaus
コメント